Việt Nam và Trung Quốc mong muốn kí kết một Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập.

Thông tin cơ bản về Hiệp Định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Trung Quốc

Việt Nam và Trung Quốc mong muốn kí kết một Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập.

Hiệp Định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Trung Quốc được áp dụng cho các đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai nước.

Vai trò của các hiệp định thương mại

Hiệp định thương mại đóng góp nhiều vai trò quan trọng trong lĩnh vực kinh tế thương mại của quốc gia.

Ngoài ra, hiệp định thương mại còn mang lại các lợi ích như:

Các loại thuế bao gồm trong Hiệp định

1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một Nước kí kết, hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hay chính quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.

2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc những phần của thu nhập, bao gồm cả các khoản thuế đối với lợi nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản cũng như các loại thuế đánh trên phần trị giá tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.

3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp định

- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.

- Thuế thu nhập đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các xí nghiệp nước ngoài.

4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại thuế có tính chất tương tự, hay về căn bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày kí Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước kí kết sẽ thông báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong luật thuế của từng Nước.

Các biện pháp xóa bỏ việc đánh thuế hai lần

Khi một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ chuyển nhượng tài sản theo luật của Trung Quốc, đồng thời phù hợp với Hiệp định này có thể bị đánh thuế tại Trung Quốc.

Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào số thuế của Việt Nam tính trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển nhượng tài sản đó một khoản tiền tương đương số thuế đã nộp tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam tính trên thu nhập lợi tức, hay lợi tức từ chuyển nhượng tài sản đó được tính phù hợp với các luật và qui định về thuế của Việt Nam.

Khi một đối tượng cư trú của Trung Quốc nhận được thu nhập từ Việt Nam, số thuế tính trên thu nhập đó phải nộp tại Việt nam phù hợp với các qui định của Hiệp định này, có thể được khấu trừ vào số thuế của Trung Quốc đánh vào đối tượng cư trú đó.

Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Trung Quốc tính trên thu nhập đó, phù hợp với các luật và qui định về thuế của Trung Quốc.

Khi thu nhập phát sinh từ Việt Nam là tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam, trả cho một công ty là đối tượng cư trú của Trung Quốc, công ty này sở hữu không dưới 10% cổ phần của công ty trả tiền lãi cổ phần.

Việc khấu trừ thuế sẽ tính đến số thuế do công ty trả tiền lãi cổ phần đã nộp tại Việt Nam đối với thu nhập của công ty đó.

Chi tiết về Hiệp Định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Trung Quốc

VỀ DẪN ĐỘ GIỮA CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là “các Bên”),

Mong muốn tăng cường hợp tác hiệu quả giữa các Bên trong đấu tranh chống tội phạm trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi,

Phù hợp với các quy định của Hiệp định này và theo yêu cầu của Bên kia, mỗi Bên đồng ý dẫn độ cho Bên kia bất kỳ người nào đang có mặt trên lãnh thổ của nước mình mà Bên kia truy nã để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đã tuyên đối với người đó.

1. Dẫn độ sẽ không được chấp thuận trừ khi hành vi được yêu cầu dẫn độ cấu thành một tội phạm theo pháp luật của cả hai Bên và đáp ứng một trong các điều kiện sau:

a) Nếu yêu cầu dẫn độ được đưa ra để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự thì tội phạm đó có thể bị xử phạt tù với thời hạn tối thiểu là một năm hoặc hình phạt nặng hơn theo pháp luật của cả hai Bên; hoặc

b) Nếu yêu cầu dẫn độ là nhằm thi hành hình phạt đã tuyên thì tại thời điểm đưa ra yêu cầu dẫn độ, thời hạn chấp hành hình phạt của người này phải còn lại ít nhất sáu tháng.

2. Khi xem xét một hành vi có cấu thành tội phạm theo pháp luật của cả hai Bên theo quy định tại khoản 1 Điều này hay không, sẽ không nhất thiết pháp luật của cả hai Bên phải quy định hành vi đó trong cùng nhóm tội hoặc cùng tội danh.

3. Nếu yêu cầu dẫn độ liên quan đến hai hay nhiều hành vi, trong đó mỗi hành vi cấu thành một tội phạm theo luật của cả hai Bên và có ít nhất một hành vi đáp ứng được các điều kiện quy định tại khoản 1 của Điều này, Bên được yêu cầu có thể chấp thuận dẫn độ đối với tất cả các hành vi đó.

a) Bên được yêu cầu cho rằng tội phạm bị yêu cầu dẫn độ là tội phạm chính trị hoặc Bên được yêu cầu đã đồng ý cho phép người bị yêu cầu dẫn độ tị nạn, tuy nhiên tội phạm khủng bố hoặc một tội phạm đã không bị coi là tội phạm chính trị theo bất kỳ hiệp định, công ước hoặc thỏa thuận quốc tế mà cả hai Bên đều là thành viên thì sẽ không được coi là tội phạm chính trị;

b) Bên được yêu cầu có căn cứ để tin rằng yêu cầu dẫn độ được đưa ra nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trừng phạt người bị dẫn độ vì lí do chủng tộc, giới tính, tôn giáo, dân tộc, quan điểm chính trị hoặc vị trí trong tố tụng của người đó có thể bị ảnh hưởng bởi một trong các lý do nêu trên;

c) Tội phạm bị yêu cầu dẫn độ thuần túy là một tội phạm quân sự;

d) Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân của Bên được yêu cầu;

e) Theo pháp luật của một trong hai Bên, người bị yêu cầu dẫn độ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc miễn thi hành hình phạt vì bất kỳ lí do nào bao gồm cả việc đã hết thời hiệu hoặc được đặc xá;

f) Bên được yêu cầu đã tuyên bản án có hiệu lực hoặc đã kết thúc quá trình tố tụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ về tội phạm bị yêu cầu dẫn độ; hoặc

g) Người bị yêu cầu đã hoặc có thể sẽ bị tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc làm nhục ở Bên yêu cầu.

Quyền tự quyết định từ chối dẫn độ

a) Bên được yêu cầu có quyền tài phán về hình sự đối với tội phạm bị yêu cầu dẫn độ theo quy định pháp luật của nước mình và đang tiến hành hoặc xem xét để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị yêu cầu dẫn độ về tội phạm đó; hoặc

b) Bên được yêu cầu, trong khi xem xét mức độ nghiêm trọng của tội phạm và các quyền lợi của Bên yêu cầu, cho rằng việc dẫn độ sẽ không phù hợp với nguyên tắc nhân đạo xét về độ tuổi, sức khỏe hoặc các hoàn cảnh cá nhân khác của người bị yêu cầu dẫn độ.

Nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự ở Bên được yêu cầu

Nếu dẫn độ không được chấp thuận theo điểm d) Điều 3 của Hiệp định này, Bên được yêu cầu sẽ, theo đề nghị của Bên yêu cầu, chuyển vụ án đến cơ quan có thẩm quyền nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với pháp luật quốc gia. Vì mục đích này, Bên yêu cầu sẽ cung cấp cho Bên được yêu cầu các tài liệu và chứng cứ liên quan đến vụ án.

1. Để thực hiện Hiệp định này, các Bên sẽ liên lạc với nhau thông qua kênh ngoại giao trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác.

2. Phù hợp với pháp luật quốc gia, yêu cầu dẫn độ sẽ được gửi và nhận bởi các cơ quan được chỉ định của các Bên như sau:

a) Đối với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Bộ Công an;

b) Đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: Bộ Ngoại giao.

3. Trong trường hợp các Bên thay đổi cơ quan nói trên của mình thì phải thông báo cho Bên kia qua đường ngoại giao.

Yêu cầu dẫn độ và các tài liệu cầu thiết

1. Yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản và gồm có hoặc kèm theo các thông tin và tài liệu sau đây:

a) Thời gian và địa điểm lập văn bản;

b) Tên và địa chỉ của cơ quan đưa ra yêu cầu dẫn độ;

c) Tên, tuổi, giới tính, quốc tịch, số chứng minh thư, nghề nghiệp, nơi thường trú hoặc tạm trú của người bị yêu cầu và các thông tin khác giúp cho việc xác định địa điểm và nhận dạng người đó; và nếu có thể, bản miêu tả, ảnh và dấu vân tay của người đó;

d) Văn bản mô tả chi tiết tội phạm, bao gồm thời gian, địa điểm, hành vi và hậu quả của tội phạm;

e) Văn bản nêu các điều khoản của luật hiện hành liên quan đến việc xác lập quyền tài phán về hình sự, xác định tội phạm và hình phạt có thể được áp dụng đối với tội phạm đó; và

f) Văn bản nêu các điều khoản của luật liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt.

2. Ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này,

a) Yêu cầu dẫn độ nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị yêu cầu dẫn độ phải kèm theo bản sao lệnh bắt của cơ quan có thẩm quyền của liên yêu cầu; hoặc

b) Yêu cầu dẫn độ nhằm thi hành hình phạt đối với người bị yêu cầu dẫn độ phải kèm theo bản sao bản án có hiệu lực và chi tiết thời gian đã chấp hành hình phạt.

3. Văn bản yêu cầu dẫn độ và các tài liệu liên quan khác theo khoản 1 và khoản 2 của Điều này phải được cơ quan có thẩm quyền của Bên yêu cầu ký và đóng dấu và gửi kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ chính thức của Bên được yêu cầu.

Nếu Bên được yêu cầu cho rằng thông tin đã cung cấp kèm theo yêu cầu dẫn độ không đầy đủ, thì có thể yêu cầu cung cấp các thông tin bổ sung trong ba mươi ngày. Nếu Bên yêu cầu đề nghị, thời hạn này có thể được gia hạn thêm mười lăm ngày. Nếu Bên yêu cầu không thể cung cấp thông tin bổ sung trong thời hạn nêu trên, coi như Bên yêu cầu tự nguyện từ bỏ yêu cầu dẫn độ. Tuy nhiên, Bên yêu cầu sẽ không bị cản trở trong việc đưa ra yêu cầu mới về dẫn độ người đó về cùng một lội phạm.

1. Trong trường hợp khẩn cấp, một Bên có thể yêu cầu Bên kia bất khẩn cấp người bị yêu cầu dẫn độ trước khi gửi yêu cầu dẫn độ. Yêu cầu bắt khẩn cấp có thể gửi bằng văn bản qua các kênh nêu tại Điều 6 hoặc qua Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL) hoặc thông qua các kênh liên lạc khác do hai Bên thỏa thuận.

2. Yêu cầu bắt khẩn cấp phải có các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 7 của Hiệp định này, văn bản về sự tồn tại của các tài liệu quy định tại khoản 2 Điều 7 và văn bản khẳng định sẽ gửi yêu cầu dẫn độ chính thức.

3. Bên được yêu cầu sẽ thông báo ngay cho Bên yêu cầu kết quả xử lý yêu cầu.

4. Bắt khẩn cấp sẽ chấm dứt nếu, trong thời hạn ba mươi ngày sau khi bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Bên được yêu cầu không nhận được yêu cầu dẫn độ chính thức. Theo đề nghị hợp lệ của Bên yêu cầu, thời hạn này có thể được gia hạn thêm mười lăm ngày.

5. Việc chấm dứt bắt khẩn cấp theo khoản 4 Điều này sẽ không ảnh hưởng đến việc dẫn độ người bị yêu cầu dẫn độ nếu sau đó Bên được yêu cầu nhận được yêu cầu dẫn độ chính thức.

1. Bên được yêu cầu sẽ xem xét yêu cầu dẫn độ phù hợp với các thủ tục quy định bởi pháp luật quốc gia và sẽ thông báo ngay cho Bên yêu cầu về quyết định của mình.

2. Nếu Bên được yêu cầu từ chối toàn bộ hoặc từng phần của yêu cầu dẫn độ, lý do từ chối sẽ được thông báo cho Bên yêu cầu.

1. Nếu Bên được yêu cầu chấp thuận việc dẫn độ, các Bên sẽ thỏa thuận về thời gian, địa điểm và các vấn đề khác liên quan đến việc tiến hành dẫn độ. Khi đó, Bên được yêu cầu sẽ thông háo cho Bên yêu cầu thời gian mà người bị dẫn độ đã bị giam giữ trước khi chuyển giao.

2. Nếu Bên yêu cầu không nhận người bị dẫn độ trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày thỏa thuận tiến hành dẫn độ, Bên được yêu cầu sẽ ngay lập tức trả tự do cho người bị yêu cầu dẫn độ và có thể từ chối yêu cầu mới của Bên yêu cầu về việc dẫn độ người đó về cùng một tội phạm, trừ trường hợp được quy định lại khoản 3 Điều này.

3. Nếu một Bên không thực hiện được việc chuyển giao hoặc nhận người bị dẫn độ trong thời gian đã thỏa thuận vì những lý do bất khả kháng, Bên kia sẽ được thông báo ngay. Các Bên sẽ thỏa thuận lại về các vấn đề có liên quan để tiến hành dẫn độ theo các quy định tại khoản 2 Điều này.

Khi người bị dẫn độ trốn quay trở lại Bên được yêu cầu trước khi kết thúc quá trình tố tụng hoặc trước khi chấp hành xong hình phạt ở Bên yêu cầu, người đó có thể bị dẫn độ lại theo một yêu cầu dẫn độ mới của Bên yêu cầu về cùng tội phạm và Bên yêu cầu không cần gửi kèm theo các văn bản và tài liệu quy định tại Điều 7 Hiệp định này.

1. Nếu người bị yêu cầu đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành hình phạt ở Bên được yêu cầu về một tội phạm khác với tội phạm bị yêu cầu dẫn độ, Bên được yêu cầu sau khi chấp nhận dẫn độ, có thể hoãn việc dẫn độ cho tới khi kết thúc quá trình tố tụng hoặc chấp hành xong hình phạt. Bên được yêu cầu sẽ thông báo cho Bên yêu cầu về việc hoãn này.

2. Nếu việc hoãn dẫn độ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình tố tụng ở Bên yêu cầu, Bên được yêu cầu có thể, theo đề nghị và trong phạm vi mà quá trình tố tụng của mình không bị ảnh hưởng, tạm thời dẫn độ người đó cho Bên yêu cầu nếu Bên yêu cầu đảm bảo sẽ trả lại người đó và điều kiện và ngay lập tức sau khi kết thúc các thủ tục tố tụng có liên quan.

Khi hai hay nhiều quốc gia bao gồm cả một Bên trong Hiệp định gửi yêu cầu dẫn độ đối với cùng một người về cùng một tội phạm hay nhiều tội phạm khác nhau thì Bên được yêu cầu khi quyết định dẫn độ người đó cho một trong các quốc gia nói trên sẽ xem xét tất cả các yếu tố liên quan, đặc biệt là:

a) Các yêu cầu dẫn độ có được lập theo một hiệp định hay không;

b) Mức độ nghiêm trọng của tội phạm;

c) Thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm;

d) Quốc tịch và nơi cư trú thường xuyên của người đó;

f) Ngày đưa ra yêu cầu dẫn độ; và

g) Khả năng dẫn độ tiếp theo tới quốc gia khác.

Người bị dẫn độ theo Hiệp định này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt ở Bên yêu cầu vì một tội khác với tội nêu trong yêu cầu dẫn độ được thực hiện trước khi bị dẫn độ, cũng không bị dẫn độ cho quốc gia thứ ba, trừ khi;

a) Bên được yêu cầu đã đồng ý trước. Trong trường hợp này, Bên được yêu cầu có thể yêu cầu gửi các tài liệu và thông tin quy định tại Điều 7 của Hiệp định này và bản tường trình của người bị dẫn độ về tội phạm có liên quan;

b) Người đó đã không rời khỏi lãnh thổ của Bên yêu cầu trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được tự do rời đi. Tuy nhiên, thời hạn này sẽ không bao gồm thời gian mà người này không thể ra khỏi lãnh thổ của Bên yêu cầu vì những lý do bất khả kháng; hoặc

c) Người đó đã tự nguyện quay trở lại sau khi đã rời khỏi lãnh thổ của Bên yêu cầu.

1. Nếu Bên yêu cầu đề nghị, Bên được yêu cầu, trong phạm vi pháp luật của mình cho phép, sẽ thu giữ tài sản do phạm tội mà có và phương tiện phạm tội cùng các tài sản khác có thể dùng làm chứng cứ tìm thấy trên lãnh thổ của mình, và khi chấp nhận dẫn độ, sẽ chuyển giao những tài sản này cho Bên yêu cầu.

2. Khi chấp nhận dẫn độ, tài sản đề cập tại khoản 1 Điều này có thể vẫn được chuyển giao nếu việc dẫn độ không thể được tiến hành do người bị yêu cầu dẫn độ đã chết, mất tích hoặc trốn thoát.

3. Bên được yêu cầu có thể, để tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự khác, hoãn việc chuyển giao tài sản trên cho đến khi kết thúc các thủ tục này, hoặc tạm thời chuyển giao những tài sản đó với điều kiện Bên yêu cầu cam kết sẽ trả lại nó.

4. Việc chuyển giao những tài sản nêu trên sẽ không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền hoặc lợi ích hợp pháp nào của Bên được yêu cầu hoặc Bên thứ ba đối với những tài sản đó. Khi có những quyền hoặc lợi ích đó. Bên yêu cầu, theo đề nghị của Bên được yêu cầu sẽ trả lại những tài sản đã chuyển giao miễn phí cho Bên được yêu cầu ngay sau khi kết thúc các thủ tục tố tụng.

1. Một Bên sẽ yêu cầu Bên kia cho phép quá cảnh nếu dẫn độ một người từ một nước thứ ba đi qua lãnh thổ của Bên kia. Trong trường hợp chuyển giao bằng đường hàng không và không hạ cánh trên lãnh thổ của Bên quá cảnh, thì không yêu cầu phải xin phép.

2. Miễn là không trái với luật quốc gia, Bên được yêu cầu sẽ chấp nhận yêu cầu quá cảnh của Bên yêu cầu.

Theo đề nghị của Bên được yêu cầu, Bên yêu cầu sẽ thông báo ngay cho Bên được yêu cầu thông tin về quá trình tố tụng hoặc chấp hành hình phạt của người bị dẫn độ hoặc thông tin liên quan đến việc dẫn độ lại người đó cho một nước thứ ba.

Các chi phí liên quan đến các thủ tục dẫn độ ở Bên được yêu cầu sẽ do Bên này chịu. Các chi phí di chuyển và quá cảnh liên quan đến việc chuyển giao hoặc tiếp nhận người bị dẫn độ sẽ do Bên yêu cầu chi trả.

Mối quan hệ với các hiệp định khác

Hiệp định này sẽ không ngăn cản các Bên hợp tác với nhau về dẫn độ theo các hiệp định khác mà cả hai Bên đều là thành viên.

Các bất đồng liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết bằng tham vấn thông qua các kênh ngoại giao.

Hiệu lực, sửa đổi và chấm dứt hiệu lực của Hiệp định

1. Một Bên sẽ thông báo cho Bên kia bằng công hàm ngoại giao rằng tất cả các thủ tục cần thiết theo luật quốc gia đã được thực hiện dế Hiệp định này có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi kể từ ngày nhận được thông báo cuối cùng.

2. Hiệp định này có thể được sửa đổi tại bất kỳ thời điểm nào theo thỏa thuận bằng văn bản giữa các Bên. Các sửa đổi này sẽ có hiệu lực theo cùng thủ tục quy định lại khoản 1 Điều này và sẽ là một phần của Hiệp định.

3. Một trong hai Bên có thể chấm dứt Hiệp định này bất kỳ lúc nào bằng cách gửi thông báo bằng văn bản qua các kênh ngoại giao. Việc chấm dứt số có hiệu lực vào ngày thứ một trăm tám mươi kể từ ngày gửi thông báo. Việc chấm dứt Hiệp định sẽ không ảnh hưởng đến các thủ tục dẫn độ bắt đầu trước thời điểm Hiệp định chấm dứt.

4. Hiệp định này áp dụng cho các yêu cầu được gửi sau khi Hiệp định có hiệu lực, kể cả nếu tội phạm diễn ra trước thời điểm Hiệp định có hiệu lực.

ĐỂ LÀM BẰNG, những người ký tên dưới đây, được ủy quyền đầy đủ, đã ký Hiệp định này.

Hiệp định này được làm thành hai bản gốc tại Bắc Kinh, ngày 07 tháng 4 năm 2015 bằng tiếng Việt, tiếng Trung và tiếng Anh, các bản có giá trị như nhau. Trong trường hợp này sinh bất đồng trong việc giải thích Hiệp định này, bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.

THAY MẶT NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRẦN VIỆT TÂN THỨ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN

THAY MẶT NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA LƯU CHẤN DÂN THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO

ON EXTRADITION BETWEEN THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM AND THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA

The Socialist Republic of Viet Nam and the People’s Republic of China (hereinafter referred to as “the Parties”),

Desirous to promote the effective cooperation between the Parties in the suppression of crime on the basis of mutual respect for sovereignty, equality and mutual benefit.

Each Party agrees, in accordance with the provisions of this Treaty and at the request of the other Party, to extradite to each other any person found in its territory and who is wanted by the other Party for the purpose of conducting criminal prosecution against or executing sentence imposed on that person.

1. Extradition shall not be granted unless the conduct for which the extradition is requested constitutes an offence under the laws of both Parties and meets one of the following conditions:

a) if the request for extradition is made for the purpose of conducting a criminal prosecution, the offence is punishable under the laws of both Parties by penalty of imprisonment for a period of at least one year or by any heavier punishment; or

b) if the request for extradition is aimed at executing a sentence imposed, a period of sentence that remains to be served by the person sought is at least six months at the time when the request for extradition is made.

2. In determining whether a conduct constitutes an offence under the laws of both Parties in accordance with paragraph 1 of this Article, it shall not matter whether the laws of both Parties place the conduct within the same category of offence or denominate the offence by the same terminology.

3. If the request for extradition concerns two or more conducts each of which constitutes an offence under the laws of both Parties and at least one of which fulfills the conditions provided for in paragraph 1 of this Article, the Requested Party may grant extradition for all of those conducts.

Extradition shall be refused if:

a) the Requested Party considers that the offence for which the extradition is requeued is a political offence or the Requested Party has granted asylum to the person sought, but terrorism offence or the offence not regarded as political offence under any international treaty, convention or agreement to which both Parties are parties shall not be treated as political offences;

b) the Requested Party has substantial grounds for believing that the request for extradition has been made for the purpose of prosecuting or punishing the person sought on account of that person’s race, sex, religion, nationality or political opinion, or that that person’s position in judicial proceedings may be prejudiced for any of those reasons:

c) the offence for which the extradition is requested only constitutes a military offence;

d) the person sought is a national of the Requested Party:

e) the person sought is, under the laws of either Party, immune from prosecution or execution of sentence for any reason including lapse of time or pardon;

f) the Requested Party has already rendered an effective judgment or terminated the criminal proceedings against the person sought in respect of the offence for which the extradition is requested; or

g) the person sought has been or will probably be subjected to torture or other cruel, inhuman or humiliating treatment or punishment in the Requesting Party,

Discretionary Grounds for Refusal

a) the Requested Party has criminal jurisdiction over the offence for which the extradition is requested in accordance with its national law, and is conducting or contemplates to institute a criminal proceeding against the person sought for that offence; or

b) the Requested Party, while taking into account the seriousness of the offence and the interests of the Requesting Party, considers that the extradition would be incompatible with humanitarian considerations in view of that person's age, health or other personal circumstances.

Obligation to Institute Criminal Proceedings in the Requested Party

If extradition is not granted pursuant to subparagraph d) of Article 3 of this Treaty, the Requested Party shall, at the request of the Requesting Party, submit the case to its competent authority for the purpose of institution of a criminal proceeding in accordance with its national law. For this purpose, the Requesting Party shall provide the Requested Party with documents and evidence relating to The case.

1. For the purpose of this Treaty, the Parties shall communicate through diplomatic channels unless otherwise provided for in this Treaty.

2. Request for extradition shall be submitted to and received by authorities designated by the Parties, in accordance with their respective national laws, as follows:

a) in the case of the Socialist Republic of Viet Nam: Ministry of Public Security;

b) in the case of the People’s Republic of China: Ministry of Foreign Affairs.

3. In case either Party changes such authority, it shall notify the other Party through diplomatic channels.

Request for Extradition and Required documents

1. Request for extradition shall he made in writing, and include or he accompanied by:

a) date and place of the request;

b) the name and address of the requesting authority;

c) the name, age, sex, nationality, number of identification documents, occupation, domicile or residence of the person sought and other information that may help to determine that person’s identity and possible location; and if available, the description of that person’s appearance, the photographs and fingerprints of that person:

d) a statement of the facts of the offence, including the time, place, conduct and consequences of the offence;

e) the text of the relevant provisions of the laws relating to establishing criminal jurisdiction, determining the offence and prescribing the penalty that can be imposed for the offence; and

f) the text of the relevant provisions of the laws describing any time limit on the prosecution or execution of sentence.

2. In addition to the provisions of paragraph l of this Article.

a) the request for extradition which is aimed at conducting a criminal proceeding against the person sought shall also be accompanied by a copy of the warrant of arrest issued by the competent authority of the Requesting Party; or

b) the request for extradition which is aimed at executing a sentence imposed on the person sought shall also be accompanied by a copy of effective judgment and a description of period of sentence which has already been executed.

3. The request for extradition and other relevant documents submitted by the Requesting Party in accordance with paragraphs 1 and 2 of this Article shall be officially signed or sealed by the competent authority of the Requesting Party and be accompanied by translations in the official language of the Requested Party.

If the Requested Party considers that the information furnished in support of a request for extradition is not sufficient, that Party may request that additional information be furnished within thirty days. At a request duly made by the Requesting Party, the time limit may be extended for fifteen days. If the Requesting Party fails to submit additional information within that period, it shall be considered as having renounced its request voluntarily. However, the Requesting Party shall not be precluded from making a new request for extradition of the same person for the same offence.thuyvy

1. In case of urgency, one Party may make a request to the other Party for the provisional arrest of the person sought before making a request for extradition. Such request may be submitted in writing through the channels provided for in Article 6 or the International Criminal Police Organization (INTERPOL) or other channels agreed to by both Parties.

2. The request for provisional arrest shall contain the contents indicated in paragraph 1 of Article 7 of this Treaty, a statement of the existence of documents indicated in paragraph 2 of that Article and a statement that a formal request for extradition other person sought will follow.

3. The Requested Party shall promptly inform the Requesting Party of the result of its handling of the request.

4. Provisional arrest shall be terminated if, within a period of thirty days after the arrest of the person sought, the Requested Party has not received the formal request for extradition. At a request duly made by the Requesting Party, such time limit may be extended for fifteen days.

5. The termination of provisional arrest pursuant to paragraph 4 of this Article shall not prejudice the extradition of the person sought if the Requested Party has subsequently received the formal request for extradition.

Decision on the Request for Extradition

1. The Requested Party shall deal with the request for extradition in accordance with the procedure provided for by its national law, and shall promptly inform the Requesting Party of its decision.

2. If the Requested Party refuses the whole or any part of the request for extradition, the reasons for refusal shall be notified to the Requesting Party.

Surrender of the Person to be Extradited

1. If the extradition has been granted by the Requested Party, the Parties shall agree on time, place and other relevant matters relating to the execution of the extradition. Meanwhile, the Requested Party shall inform the Requesting Party of the period of time for which the person to be extradited has been detained prior to the surrender.

2. If the Requesting Party has not taken over the person to he extradited within fifteen days after the date agreed for the execution of the extradition, the Requested Party shall release that person immediately and may refuse a new request by the Requesting Party for extradition of that person for the same offence, unless otherwise provided for in paragraph 3 of this Article.

3. If one Party fails to surrender or take over the person to be extradited within the agreed period for reasons beyond its control, the other Party shall he notified promptly. The Parties shall once again agree on the relevant matters for the execution of the extradition, and the provisions of paragraph 2 of this Article shall apply.

Where the person under extradition escapes back to the Requested Party before criminal proceedings are terminated or his sentence is served in the Requesting Party, that person may be re-extradited upon a fresh request for extradition made by the Requesting Party in respect of the same offence and the Requesting Party need not submit the documents and material provided for in Article 7 of this Treaty.

Postponement of Extradition and Temporary Extradition

1. If the person sought is being proceeded against or is serving a sentence in the Requested Party for an offence other than that for which the extradition is requested, the Requested Party may, after having made a decision to grant extradition, postpone the extradition until the conclusion of the proceeding or the completion of the sentence, The Requested Party shall inform the Requesting Party of the postponement.

2. If the postponement of the extradition may seriously impede the criminal proceedings in the Requesting Party, the Requested Party may, upon request and to the extent that its ongoing criminal proceedings are not hindered, temporarily extradite the person sought to the Requesting Party provided that the Requesting Party undertakes to return that person unconditionally and immediately upon conclusion of relevant proceedings.

Requests for Extradition Made by Several States

Where requests are made by two or more states including one Party for extradition of the same person either for the same offence or for different offences, the Requested Party, in determining to which state the person is to be extradited, shall consider all relevant circumstances, in particular:

a) whether the requests were made pursuant to a treaty;

b) the gravity of the offences;

c) the time and place of the commission of the offence;

d) the nationality and the ordinary residence of the person sought;

e) the nationality of the victim;

f) respective dates of the requests: and

g) the possibility of subsequent extradition to another state,

The person extradited in accordance with this Treaty shall not be proceeded against or subject to the execution of sentence in the Requesting Party for an offence committed by that person before his extradition other than that for which the extradition is granted, nor shall that person be extradited to a third state, unless:

a) the Requested Party has consented in advance. For the purpose of such consent, the Requested Party may require the submission of the documents and information mentioned in Article 7 of this Treaty, and a statement by the extradited person with respect to the offence concerned;

b) that person has not left the Requesting Party within thirty days after having been free to do so. However, this period of time shall not include the time during which that person fails to leave the Requesting Party for reasons beyond his control; or

e) that person has voluntarily returned to the Requesting Party after leaving it.

1. If the Requesting Party so requests, the Requested Party shall, to the extent permitted by its national law, seize the proceeds and instrumentality of the offence and other property which may serve as evidence found in its territory, and when extradition is granted, shall surrender these property to the Requesting Party.

2. When the extradition is granted, the property mentioned in paragraph 1 of this Article may nevertheless be surrendered even if the extradition can not be curried out owing to the death, disappearance or escape of the person sought.

3. The Requested Party may, for conducting any other pending criminal proceedings, postpone the surrender of above-mentioned property until the conclusion of such proceedings, or temporarily surrender that property on condition that the Requesting Party undertakes to return it.

4. The surrender of such property shall not prejudice any legitimate rights or interests of the Requested Party or any third party to that property. Where these rights or interests exist, the Requesting Party shall, return the surrendered property without charge to the Requested Party as soon as possible after the conclusion of the proceedings.

1. When one Party is to extradite a person from a third state through the territory of the other Party, it shall request the other Party for the permission of such transit. No such request is required where air transportation is used and no landing in the territory of the other Party is scheduled.

2. The Requested Party shall, insofar as not contrary 10 its national law, grant the request for transit made by the Requesting Party.

The Requesting Party shall, upon request of the Requested Party, provide the Requested Party promptly with the information on the proceedings or the execution of sentence against the extradited person or information concerning the extradition of that person to a third state.

Expenses arising from the procedures lor extradition in the Requested Party shall be borne by that Party. Expenses of transportation and the transit expenses in connection with the surrender or taking over of the extradited person shall be borne by the Requesting Party.

Relationship with Other Treaties

This Treaty shall not prevent the Parties from cooperating with each other on extradition in accordance with other treaties to which both Parties are parties.

Any dispute arising from the interpretation or application of this Treaty shall be settled by consultation through diplomatic channels.

Entry into Force, Amendment and Termination

1. Each Party shall inform the other by diplomatic note that all necessary steps have been taken under its laws for entry into force of this Treaty. This Treaty shall enter into force upon the thirtieth day from the date of receipt eithe later diplomatic note.

2. This Treaty may be amended at any time by written agreement between the Parties. Any such amendment will enter into force in accordance with the same procedure prescribed in paragraph 1 of this Article and will form part of this Treaty.

3. Either Party may terminate this Treaty by notice in writing through diplomatic channels at any time. Termination shall take effect on the one hundred and eightieth day after the date on which the notice is given. Termination of this Treaty shall not affect the extradition proceedings commenced prior to the termination.

4. This Treaty applies to any request presented after its entry into force even if the relevant offences occurred before the entry into force of this Treaty.

IN WITNESS WHEREOF, the undersigned, being duly authorized, have signed this Treaty.

DONE in duplicate at Beijing on the 7th day of April 2015, in the Vietnamese, Chinese and English languages, all texts being equally authentic. In case of divergence of interpretation, the English text shall prevail.

FOR THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM TRAN VIET TAN DEPUTY MINISTER OF PUBLIC SECURITY

FOR THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA LIU ZHENMIN DEPUTY MINISTER OF FOREIGN AFFAIRS

(Chinhphu.vn) – Tin từ Văn phòng Bộ Công Thương, ngày 8/4, tại Vientiane (Lào), Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cùng Bộ trưởng Bộ Công Thương Lào đã ký kết mới Hiệp định Thương mại Việt Nam-Lào.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã cùng Bộ trưởng Bộ Công Thương Lào ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào mới. Ảnh: MOIT

Trong chuyến công tác tại Vientiane (Lào) từ ngày 6-8/4, sáng 8/4, Đoàn công tác của Bộ Công Thương Việt Nam do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm Trưởng đoàn đã hội đàm với Bộ trưởng Bộ Công Thương Lào Malaithong Kommasith nhằm trao đổi, để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy hợp tác công nghiệp, thương mại giữa hai nước Việt Nam – Lào. Cùng với đó, hai Bộ trưởng đã ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào mới và chứng kiến lễ ký một số biên bản hợp tác giữa hai nước.

Kim ngạch thương mại Việt Nam-Lào chưa tương xứng tiềm năng Điểm lại tình hình hợp tác thương mại giữa hai nước Việt Nam – Lào trong thời gian qua, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, hợp tác trong lĩnh vực Công Thương là trụ cột trong quan hệ hai nước.

Từ năm 2012 đến nay, hai Bên liên tục hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kim ngạch thương mại từ 10-15%năm (trừ giai đoạn dịch COVID-19). Năm 2023, kim ngạch thương mại song phương hai nước đạt 1,63 tỷ USD, giảm 4,3% so với năm 2022.  Ước 3 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 417,8 triệu USD, giảm 1,8% so với cùng kỳ 2023. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Lào ước đạt 148,3 triệu USD, tăng 16%; nhập khẩu của Việt Nam từ Lào ước đạt 270 triệu USD, giảm 9,5%. Xăng dầu, sắt thép, máy móc thiết bị… là các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Lào.

Ở chiều ngược lại, Việt Nam tiếp tục nhập cao su, gỗ, quặng và khoáng sản từ Lào.”Đây là nỗ lực rất lớn của Bộ Công Thương hai nước”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá và cho rằng, sau một năm 2023 đầy diễn biến khó lường, kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2024 đã chứng kiến các tín hiệu tích cực hơn.

Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, trong các năm gần đây, Lào đã chuyển từ vị thế nhập siêu sang vị thế xuất siêu sang Việt Nam. Điều này cho thấy năng lực sản xuất của Lào đang dần tăng lên. Lào đang dần trở thành một trong những nguồn cung cấp quan trọng các sản phẩm và nguyên liệu phục vụ sản xuất cho Việt Nam trong khối ASEAN.

Trong khi đó, thời gian qua, Việt Nam đã có kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 735 tỷ USD, nằm trong nhóm 20 nước có quy mô ngoại thương lớn nhất thế giới và nhóm các thị trường hấp dẫn nhất về thu hút FDI. Chính vì vậy, Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu rất lớn các loại nguyên liệu đầu vào và điện năng từ các nước, trong đó có Lào.

Thúc đẩy xuất khẩu, hợp tác phát triển hạ tầng thương mại biên giới Thứ hai, thúc đẩy hợp tác phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam – Lào. Hiện nay, kim ngạch thương mại biên giới giữa Việt Nam và Lào chiếm tới hơn 90% tổng kim ngạch thương mại hai nước.

Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động thương mại biên giới Việt Nam – Lào giai đoạn tới, hai Bên cần triển khai có hiệu quả Bản ghi nhớ về phát triển và kết nối hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam – Lào (ký vào tháng 1/2024); rà soát, trao đổi để sửa đổi, bổ sung Thỏa thuận Hà Nội năm 2007 và Hiệp định Thương mại biên giới Việt Nam – Lào cho phù hợp với tình hình và bối cảnh mới.

Thứ ba, tập trung khai thác tối đa hiệu quả của các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu hiện có tại khu vực biên giới hai nước. Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên hoàn toàn nhất trí quan điểm cần tạo điều kiện để tăng cường xuất khẩu hàng hoá từ Lào sang Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng Việt Nam có nhu cầu, phục vụ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam. Bộ trưởng đề nghị hai Bộ Công Thương Việt Nam và Lào phối hợp với các địa phương để thúc đẩy hiệu quả của thương mại khu vực biên giới và các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu.

Song song đó, hai Bộ trưởng cũng cho rằng, hai Bên cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện pháp lý cho hoạt động hợp tác công nghiệp biên giới. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Malaithong Kommasith đã giao các đơn vị đầu mối khẩn trương đàm phán, thống nhất Bản ghi nhớ về Phát triển chuỗi liên kết công nghiệp giữa hai nước để tiến tới ký kết trong thời gian tới.

Thứ tư, phối hợp chặt chẽ để đảm bảo ổn định thị trường xăng dầu của Lào. Tại hội đàm, Bộ trưởng Malaithong Kommasith đề nghị phía Việt Nam hỗ trợ Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm quản lý thị trường xăng dầu; đồng thời giúp Lào ổn định nguồn cung xăng dầu.

Sẵn sàng hỗ trợ Lào trong việc đảm bảo nguồn cung xăng dầu Với đề nghị này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, Bộ Công Thương Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Lào trong việc đảm bảo nguồn cung xăng dầu. Vừa qua, Bộ Công Thương đã và đang tiếp tục khuyến khích các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu của Việt Nam chủ động kết nối với doanh nghiệp của Lào, tăng cường và tạo sự ổn định trong việc cung ứng xăng dầu sang thị trường Lào.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, hiện nay, phía Việt Nam đã ban hành Quy hoạch kho chứa xăng dầu. Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 phê duyệt Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bộ Công Thương Việt Nam ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp của hai bên nghiên cứu, thúc đẩy hợp tác, xem xét khả năng xây dựng kho chứa xăng dầu, phù hợp pháp luật của mỗi bên và phù hợp với lợi ích chung của cả hai bên.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng cho rằng, kim ngạch thương mại Việt Nam – Lào mới đạt quy mô 1,65 tỷ USD, chỉ bằng 10% tổng kim ngạch ngoại thương của Lào và 0,2% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, chưa tương xứng với tiềm năng và quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.

Để khai thác tiềm năng hợp tác thương mại, trao đổi tại hội đàm, hai Bộ trưởng đã nhất trí các giải pháp cụ thể triển khai cam kết, thoả thuận đã được Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất tại bản Thoả thuận về Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào; biên bản kỳ họp thứ 46 Uỷ ban liên Chính phủ Việt Nam – Lào; bao gồm:

Thứ nhất, về giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá giữa hai nước, gia tăng khối lượng kim ngạch thương mại giữa hai nước. Hai Bên nhất trí đẩy mạnh việc tổ chức các hoạt động giao thương, kết nối doanh nghiệp hai nước như các diễn đàn doanh nghiệp, hội nghị kết nối giao thương doanh nghiệp, hội chợ thương mại, diễn đàn thúc đẩy thương mại, hội thảo thông tin thị trường.

Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Tổng cục Quản lý thị trường (Bộ Công Thương Việt Nam) và Vụ Cạnh tranh và Kiểm tra thương mại (Bộ Công Thương Lào)

Để đảm bảo cung ứng xăng dầu trong nước, về lâu dài, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng Chính phủ Lào cần xem xét duy trì tỉ giá hối đoái ổn định, dự báo được và đảm bảo nguồn cung ngoại tệ; đảm bảo cho doanh nghiệp đầu mối xăng dầu hoạt động có lãi. Đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho thị trường.

Lễ ký Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa GP Holdings, Viện Nghiên cứu cơ khí và Tập đoàn Phonesack Group về hợp tác xây dựng kho bãi và băng truyền tải than

Thứ năm, tăng cường hợp tác trong công tác quản lý thị trường.

Trước những quan tâm của phía Lào liên quan đến công tác quản lý thị trường (chống buôn lậu, chống gian lận thương mại), Bộ Công Thương Việt Nam sẵn sàng chia sẻ và cùng Bộ Công Thương Lào phối hợp trong công tác quản lý thị trường, ngăn chặn các hiện tượng buôn lậu, gian lận thương mại.

Sau buổi hội đàm hôm nay, Tổng cục Quản lý thị trường, Bộ Công Thương Việt Nam và Vụ Cạnh tranh và Kiểm tra thương mại, Bộ Công Thương Lào sẽ ký Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực quản lý thị trường. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho hợp tác giữa hai Bên trong thời gian tới trong lĩnh vực quản lý thị trường.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác phát triển thương mại điện tử.

Đối với lĩnh vực này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, Lào đã có những bước tiến mạnh mẽ trong phát triển thương mại điện tử. Dự báo doanh thu từ thương mại điện tử có thể đạt 433 triệu USD vào năm 2028. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển thương mại điện tử của Lào còn rất lớn. Do đó, đề nghị Lào chú trọng xây dựng chính sách phát triển thương mại điện tử, khuyến khích và tạo điều kiện doanh nghiệp trong ngành này phát triển, hỗ trợ mạnh mẽ cho phát triển của kinh tế Lào.

Sau buổi hội đàm, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã cùng Bộ trưởng Bộ Công Thương Lào ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào mới. Việc ký kết các Bản ghi nhớ hợp tác theo từng chuyên ngành sẽ tiếp tục góp phần làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nước.

Tháng 3/2015, hai bên đã chính thức ký Hiệp định thương mại Việt Nam – Lào và ký kết Hiệp định thương mại biên giới Việt Nam – Lào vào tháng 6/2015 nhằm tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường trao đổi thương mại giữa hai nước. Từ đầu năm 2021 trở lại đây, sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là sự gắn kết giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Công Thương Lào cùng với nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam – Lào ngày càng khởi sắc và tăng trưởng mạnh mẽ. Với tiềm năng phát triển còn rất lớn, kim ngạch thương mại Việt Nam – Lào không chỉ tăng trưởng ở mức độ 10%-15%/năm mà còn hướng đến phát triển ổn định bền vững.

Do vậy, việc ký kết và đưa vào thực thi Hiệp định sửa đổi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào năm 2015 sẽ góp phần giải quyết các vấn đề phát sinh sau một thời gian thực hiện Hiệp định; tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Lào; đặc biệt việc rà soát và đưa ra các ưu đãi về thuế, suất thuế nhập khẩu đi trước lộ trình giảm thuế của Việt Nam và Lào trong ASEAN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam – Lào.

Kết thúc Hội đàm, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên một lần nữa đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Công Thương Lào. Bộ trưởng khẳng định, Bộ Công Thương Việt Nam luôn sẵn sàng phối hợp, hỗ trợ và duy trì trao đổi thường xuyên với Bộ Công Thương Lào để thúc đẩy hợp tác Việt Nam – Lào ngày càng đạt được nhiều kết quả tích cực, khai thác tốt hơn nữa thế mạnh, tiềm năng hợp tác của mỗi nước trong thời gian tới, góp phần đóng góp vào mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước.

Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào được ký lần đầu năm 2015. Chính phủ Việt Nam và Lào giao Bộ Công Thương hai nước đàm phán, sửa đổi, bổ sung để xây dựng Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào mới (gọi tắt là Hiệp định) phù hợp với bối cảnh hiện nay. Sau quá trình đàm phán kéo dài 3 năm, hai Bên đã thống nhất được các nội dung Hiệp định mới.

Bản Hiệp định mới hướng tới mục tiêu tăng cường, củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, thúc đẩy tiếp cận thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và tạo sự kết nối phát triển ổn định, bền vững và lâu dài. Các điều khoản của Hiệp định được xây dựng dựa trên nguyên tắc phù hợp với các luật, quy định và chính sách tương ứng của mỗi nước; bình đẳng, cùng có lợi; cùng hướng tới việc tạo thuận lợi tối đa trong việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và cung ứng dịch vụ, dành cho nhau những ưu đãi đặc biệt về thương mại hàng hóa và dịch vụ .

Hiệp định gồm 5 chương, tương ứng với 15 điều khoản và 05 phụ lục đã bao phủ các vấn đề quan trọng trong hợp tác thương mại giữa hai nước, bao gồm: Quy định về việc tiếp cận thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ; tạo thuận lợi thương mại; xúc tiến thương mại và ứng dụng thương mại điện tử; hợp tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống rửa tiền và vận chuyển trái phép qua biên giới.

Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào mới sau khi ký kết và đi vào thực thi sẽ góp phần giải quyết các vấn đề phát sinh sau một thời gian thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Lào năm 2015; tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Lào; đặc biệt việc rà soát và đưa ra các ưu đãi về thuế suất thuế nhập khẩu đi trước lộ trình giảm thuế của Việt Nam và Lào trong ASEAN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam – Lào. Phan Trang

Các Hiệp định Thương mại cung cấp khả năng tiếp cận tốt hơn đối với hàng hóa và/hoặc dịch vụ tại các quốc gia ký kết hợp đồng và bằng cách giảm các rào cản thương mại tại các thị trường đó.

Cùng Xuất nhập khẩu Lê Ánh tìm hiểu kỹ hơn về các hiệp định thương mại việt nam đã ký kết trong bài viết dưới đây nhé!

»»»»» Khóa Học PURCHASING (Mua Hàng Thực Chiến)

Hiệp định thương mại có tên tiếng Anh là Trade Agreement, là văn bản mang tính chất pháp lý quốc tế, dựa trên nguyên tắc là thỏa thuận và đảm bảo những lợi ích của nhau nhằm thực hiện các hoạt động kinh tế, thương mại. Từ  hiệp định thương mại này, các quốc gia cùng thỏa thuận tìm kiếm những điều kiện nhằm hướng đến mục tiêu thương mại quốc tế của quốc gia đó.

Các hiệp định thương mại có thể là song phương hoặc đa phương - nghĩa là giữa hai quốc gia hoặc nhiều hơn hai quốc gia.

Các hiệp định này được ký kết khi cả hai bên sẵn sàng giảm bớt hoặc loại bỏ các rào cản thương mại để cải thiện triển vọng kinh tế và thương mại quốc tế. Đây là kết quả của các cuộc đàm phán, thảo luận giữa các quốc gia có chủ quyền quy định các điều khoản về trao đổi hàng hóa và dịch vụ được chấp nhận giữa các bên.

Điều này tạo ra một khuôn khổ để tiến hành thương mại và là điều kiện tiên quyết để quản lý và điều tiết thương mại giữa các quốc gia. Các quốc gia có thể thiết kế các hiệp định thương mại theo những cách khác nhau. Hơn nữa, các loại thuế, thuế quan, hàng rào phi thuế quan và hiệp ước thương mại hiệu quả có thể góp phần vào tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và hiệp lực các đơn vị kinh doanh sản xuất trong và ngoài nước.

Trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại, có rất nhiều liên minh và rất nhiều rào cản đơn phương. Hơn nữa, một số rào cản thương mại được tạo ra vì những lý do khác, phi kinh tế, chẳng hạn như an ninh quốc gia hoặc mong muốn bảo tồn hoặc cách ly văn hóa địa phương khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các hiệp định thương mại đều rất phức tạp. Một số đặc điểm chung của các hiệp định thương mại là (1) có đi có lại , (2) điều khoản tối huệ quốc (MFN), và (3) đối xử quốc gia đối với các hàng rào phi thuế quan.