Theo số liệu thống kê, tính đến 31 tháng 12 năm 2023, cả nước có khoảng trên 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên, trong đó có 28,3%, tương đương gần 2 triệu trẻ em [1]. Trong đó, các em bị tật nguyền chủ yếu ở các dạng như: điếc (khuyết tật thính giác, mất khả năng nghe); mù, lòa (khuyết tật thị giác - khiếm thị); què, quặt, liệt (khuyết tật vận động, bị tổn thương các cơ quan vận động như tay, chân, cột sống gây ra khó khăn trong việc cầm nắm, đi lại, đứng, ngồi hay nằm); câm (khuyết tật ngôn ngữ, bị tật ở cơ quan tiếp nhận chỉ huy ngôn ngữ vùng não và tổn thương của bộ phận phát âm làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp của trẻ; thiểu năng não (khuyết tật trí tuệ, suy giảm năng lực nhận thức, chỉ số thông minh thấp, trẻ không thích nghi được các hoạt động xã hội); đa tật (bị nhiều loại khuyết tật cùng lúc)....

Mức trợ cấp cho người người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng từ 01/7/2024

Theo đó, Nghị định 76/2024/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung khoản 2,3 Điều 4 quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP. Cụ thể:

- Mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 01/7/2024 là 500.000 đồng/tháng.

Tùy theo khả năng cân đối của ngân sách, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tình hình đời sống của đối tượng bảo trợ xã hội, cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội cho phù hợp; bảo đảm tương quan chính sách đối với các đối tượng khác.

- Trường hợp điều kiện kinh tế - xã hội địa phương bảo đảm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định:

+ Mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội áp dụng trên địa bàn cao hơn mức chuẩn trợ giúp xã hội và mức trợ giúp xã hội quy định tại Nghị định này;

+ Đối tượng khó khăn khác chưa quy định tại Nghị định này được hưởng chính sách trợ giúp xã hội.

* Theo đó, khi tăng mức chuẩn trợ cấp xã hội hàng tháng lên 500.000 đồng/tháng thì mức trợ cấp xã hội hàng tháng cũng có sự thay đổi như sau:

Mức chuẩn trợ giúp xã hội (500 nghìn đồng)

Cụ thể, cho người người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật từ 01/7/2024 như sau:

Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật

(1) Hệ số 2,0 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng

(2) Hệ số 2,5 đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng

(3) Hệ số 1,5 đối với người khuyết tật nặng

(4) Hệ số 2,0 đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng

Quy định về xác định mức độ khuyết tật

Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.

Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Người khuyết tật 2010 thì người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:

(1) Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.

(2) Người khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.

(3) Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp (1) và (2).

Việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện. Trong các trường hợp sau đây thì việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định y khoa thực hiện:

- Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không đưa ra được kết luận về mức độ khuyết tật;

- Người khuyết tật hoặc đại diện hợp pháp của người khuyết tật không đồng ý với kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật;

- Có bằng chứng xác thực về việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không khách quan, chính xác.

Trường hợp đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động thì việc xác định mức độ khuyết tật theo quy định của Chính phủ.

Bạn Có Nên Cố Thay Đổi "Sự Thuận Tay" Của Con?

Con bạn sẽ tự nhiên sử dụng bàn tay mà chúng cảm thấy chúng sử dụng tốt nhất cho bất kỳ nhiệm vụ nào được giao. Chúng có thể tỏ ra ưu tiên thuận tay trái hoặc có thể sử dụng cả hai tay ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào nhiệm vụ và những gì chúng cảm thấy đó là cách tốt nhất để thực hiện.

Cố gắng thay đổi tính thuận tay trái có thể dẫn đến những thất vọng trong học tập và các vấn đề về lòng tự trọng. Với sự cân nhắc này, bạn không được ép buộc hoặc chế nhạo con bạn sử dụng tay phải khi chúng có xu hướng thuận tay trái.

Tham Khảo: Tư vấn tâm lý học đường và những áp lực học tập trẻ em đang phải đối mặt

Nếu bạn tin rằng có khả năng sự thuận tay của con bạn có liên quan đến tình trạng khuyết tật học tập, điều quan trọng cần nhớ là bản thân sự lựa chọn thuận tay không phải là nguyên nhân của tình trạng này. chỉ đơn giản là một khía cạnh khác của sự phát triển của con bạn và không nên được coi là một vấn đề cần được "sửa".

Nếu bạn lo lắng về khả năng con bạn bị khuyết tật học tập, bạn có thể muốn bắt đầu bằng cách nói chuyện với bác sĩ nhi khoa của họ. Bác sĩ có thể giúp bạn quyết định xem có lý do gì để lo lắng hay không và có thể giới thiệu bạn đến các chương trình can thiệp sớm cho trẻ nhỏ.

Bản thân việc thuận tay trái không phải là một nguyên nhân đáng lo ngại, đặc biệt nếu trong gia đình bạn có những người thuận tay trái khác. Tuy nhiên, nếu bạn cảm thấy lo lắng rằng con mình có thể bị khuyết tật học tập, điều quan trọng là phải nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực ngay lập tức. Sự can thiệp sớm có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp con bạn cải thiện tình trạng sức khỏe học tập.

Nguồn: Is Left-Handedness a Sign of a Learning Disability?

Mức trợ cấp cho người người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng từ 01/7/2024 (Hình từ internet)

Ngày 01/7/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 76/2024/NĐ-CP  sửa đổi Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

Sự Hình Thành Của Thuận Tay Trái

Trẻ sơ sinh bắt đầu tỏ ra thích tay này hơn tay kia ngay cả trước khi sinh, và sở thích đó tiếp tục phát triển trong suốt thời thơ ấu. Di truyền là một trong những yếu tố hình thành nên khả năng thuận tay trái của trẻ, nhưng các yếu tố khác như ảnh hưởng từ môi trường và văn hóa cũng có vai trò nhất định.

Các nhà nghiên cứu tin rằng khi não bộ phát triển, có sự khác biệt trong quá trình phát triển của hai bán cầu não có thể là nguyên nhân dẫn đến cảm giác thoải mái của đứa trẻ khi sử dụng bàn tay tương ứng của chúng.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng thuận tay trái phổ biến hơn ở những người mắc một số rối loạn nhận thức, chẳng hạn như tự kỷ, ADHD, hay rối loạn phối hợp phát triển (DCD).

Các cơ chế liên quan đến mối quan hệ của việc thích sử dụng bàn tay trái hay phải với những chứng rối loạn nói trên vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.

Một giả thuyết cho rằng những người thuận tay trái có một sự cản trở trong quá trình phát triển bình thường của não, khiến não “chuyển” tay thuận sang bên kia. Có lẽ, cũng chính điểm cản trở này gây ra các vấn đề về nhận thức hoặc thần kinh khác. Chỉ một số người thuận tay trái có khuyết tật liên quan đến khả năng học tập, còn lại hầu như không.

Hãy nhớ rằng những phát hiện này vẫn còn là một vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà khoa học, do sự khác biệt trong cách đo lường sở thích tay và kỹ năng học tập. Vì lý do này, rất khó để đưa ra bất kỳ kết luận nào về mối liên hệ giữa việc thuận tay và khả năng nhận thức.

Tham Khảo: Tâm Lý Trẻ Em Khi Chuyển Tiếp Trong Quá Trình Học Tập