Đông Nam Á là tiểu vùng nằm ở phía Đông Nam của Châu Á, tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đây là vùng địa lý quan trọng, cầu nối giữa lục địa Á – Âu với lục địa Australia, bao gồm hệ thống đảo, bán đảo, quần đảo đan xen giữa biển, vịnh biển vô cùng phức tạp.

Xuất khẩu lao động sang các nước Đông Nam Á thông qua hình thức nào?

Căn cứ Điều 5 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 quy định như sau:

Như vậy, hiện nay người lao động muốn xuất khẩu lao động sang các nước Đông Nam Á có thể thông qua 03 hình thức như sau:

(1) Thông qua đơn vị sự nghiệp công lập

Hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ký với đơn vị sự nghiệp để thực hiện thỏa thuận quốc tế.

(2) Thông qua dịch vụ tư vấn việc làm

Hợp đồng hoặc thỏa thuận bằng văn bản về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ký với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sau đây:

- Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

- Doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài;

- Doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài;.

- Tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

(3) Giao kết với doanh nghiệp nước ngoài

Hợp đồng lao động do người lao động Việt Nam trực tiếp giao kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài.

Quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở các nước Đông Nam Á theo hợp đồng như thế nào?

Căn cứ tại Điều 6 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 quy định về quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở các nước Đông Nam Á theo hợp đồng gồm có như sau:

- Được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; chính sách, pháp luật và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động có liên quan đến người lao động; quyền, nghĩa vụ của các bên khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

- Được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện quyền, nghĩa vụ và hưởng lợi ích trong hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề;

- Hưởng tiền lương, tiền công, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động và quyền lợi, chế độ khác theo hợp đồng lao động; chuyển về nước tiền lương, tiền công, thu nhập, tài sản hợp pháp khác của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;

- Được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong thời gian làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế;

- Đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bị người sử dụng lao động ngược đãi, cưỡng bức lao động hoặc có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe hoặc bị quấy rối tình dục trong thời gian làm việc ở nước ngoài;

- Hưởng chính sách hỗ trợ về lao động, việc làm và quyền lợi từ Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo quy định của pháp luật;

- Không phải đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân hai lần ở Việt Nam và ở nước tiếp nhận lao động nếu Việt Nam và nước đó đã ký hiệp định về bảo hiểm xã hội hoặc hiệp định tránh đánh thuế hai lần;

- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

- Được tư vấn và hỗ trợ tạo việc làm, khởi nghiệp sau khi về nước và tiếp cận dịch vụ tư vấn tâm lý xã hội tự nguyện.

- Tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;

- Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam; tôn trọng phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động; đoàn kết với người lao động tại nước tiếp nhận lao động;

- Hoàn thành khóa học giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài;

- Nộp tiền dịch vụ, thực hiện ký quỹ theo quy định của Luật này;

- Làm việc đúng nơi quy định; chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động; tuân thủ sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động ở nước ngoài theo hợp đồng lao động;

- Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;

- Về nước đúng thời hạn sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề; thông báo với cơ quan đăng ký cư trú nơi trước khi đi làm việc ở nước ngoài hoặc nơi ở mới sau khi về nước theo quy định của Luật Cư trú trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh;

- Nộp thuế, tham gia bảo hiểm xã hội, hình thức bảo hiểm khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;

- Đóng góp vào Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước.

Thủ đô 11 nước Đông Nam Á gồm :

(LLCT) - Khu vực Nam Á  gồm 8 nước(1), có vị trí địa chiến lược quan trọng của châu Á và thế giới. Trong đó, Ấn Độ là một nước lớn, có vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Pakítxtan, Ápganítxtan, Xri Lanca là cửa ngõ chiến lược giữa tiểu lục địa Ấn Độ với thế giới. Bởi vậy, khu vực này luôn thu hút sự quan tâm của các nước lớn, nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược toàn cầu.

1. Điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tại Nam Á

Ấn Độ: Nhờ những thành tựu của cuộc cải cách kinh tế dưới thời Thủ tướng N.Rao, kinh tế Ấn Độ có bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 6,2% trong thập niên 90(2)và tính đến nay, GDP của Ấn Độ đã đạt 1,88 nghìn tỷ USD, đóng góp khoảng 80% tổng GDP toàn khu vực. Ấn Độ sở hữu công nghệ tên lửa hạt nhân, có công nghệ vệ tinh hiện đại, lực lượng hải quân mạnh và nền công nghiệp quốc phòng phát triển.

Mục tiêu chiến lược của Ấn Độ là củng cố vị trí cường quốc khu vực và xa hơn là trở thành một trung tâm quyền lực của thế giới. Do đó, Ấn Độ một mặt tiếp tục nâng cao nội lực, củng cố quan hệ láng giềng và khu vực Nam Á, đẩy mạnh quan hệ với khu vực Đông Á thông qua “Chính sách hướng Đông”. Ấn Độ thực hiện chính sách can dự tích cực và ngoại giao kinh tế nhằm duy trì ảnh hưởng nổi trội trong khu vực. Hiện nay, Ấn Độ đã xây dựng ảnh hưởng đáng kể ở Nêpan, Butan, Manđivơ; giải quyết bất đồng, tranh chấp với Bănglađét; thúc đẩy tiến trình đàm phán hoà bình với Pakítxtan; tích cực thúc đẩy hợp tác với những nước trong khu vực qua các cơ chế hợp tác khu vực như Sáng kiến hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa ngành Vịnh Bengan (BIMSTEC), Hiệp hội hợp tác các nước khu vực Nam Á (SAARC), Hiệp định khu vực thương mại tự do (SAFTA)...

Đồng thời, Ấn Độ gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn tại khu vực. Với Mỹ, Ấn Độ điều chỉnh chính sách theo hướng thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược nhằm tạo thế trong quan hệ với các nước lớn khác, tranh thủ thị trường, vốn và khoa học công nghệ, có điều kiện tiếp cận kho nhiên liệu hạt nhân thế giới và kỹ thuật hạt nhân, từ đó mở rộng hợp tác năng lượng hạt nhân với các nước có tiềm năng hạt nhân, kiềm chế Pakítxtan và đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Với Trung Quốc, Ấn Độ thực hiện chính sách vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa thúc đẩy trao đổi kinh tế - thương mại, nhưng vẫn luôn giữ thái độ cảnh giác trước ý đồ mở rộng không gian chiến lược của Trung Quốc ở khu vực Nam Á, Trung Á và Ấn Độ Dương, đồng thời còn bất đồng về tranh chấp biên giới và thâm hụt thương mại lớn. Với Nga, Ấn Độ coi trọng tăng cường quan hệ với Nga trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong hợp tác năng lượng, an ninh và quốc phòng trên cơ sở hai nước có một số điểm đồng về lợi ích kinh tế-chính trị, an ninh và mối quan hệ truyền thống lâu đời.

Ngoài ra, Ấn Độ tích cực tham gia và phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên Hợp quốc, Phong trào Không liên kết, Cấp cao Đông Á… nhằm phát huy vị thế và vai trò trên khu vực và quốc tế. Đáng chú ý, Ấn Độ có nhiều đóng góp tích cực vào quá trình dân chủ hóa và cải tổ Liên Hợp quốc.

Trung Quốc: Nam Á nằm sát khu vực Tây Nam của Trung Quốc, trong đó Trung Quốc cùng chung biên giới với 5 nước và đều có tranh chấp biên giới với những nước này. Vì vậy, khu vực Nam Á có liên quan trực tiếp đến ổn định, an ninh và phát triển của Trung Quốc. Lợi ích lâu dài của Trung Quốc tại khu vực này là kiểm soát khu vực Nam Á nhằm đảm bảo an ninh khu vực Tây Nam, giải quyết vấn đề biên giới với các nước và thực hiện kiềm chế Ấn Độ. Do đó, Trung Quốc ngày càng tìm cách mở rộng không gian chiến lược, tranh giành ảnh hưởng với Ấn Độ tại các nước Nam Á, thành lập vành đai bao vây, kiềm chế Ấn Độ.

Trung Quốc một mặt xây dựng mối quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, trong đó cạnh tranh là chính với Ấn Độ, vì Trung Quốc cần Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì một thế giới “đa cực”, cải tổ toàn diện Liên Hợp quốc và chia sẻ điểm đồng với Ấn Độ trong mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới và làm chuyển dịch trung tâm kinh tế từ Tây sang Đông và đối với việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố, dịch bệnh… Nhưng Trung Quốc không muốn Ấn Độ giành ghế thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, mở rộng và cạnh tranh gay gắt về ảnh hưởng, về năng lượng, khai thác tài nguyên môi trường tại khu vực. Trung Quốc còn có những bất đồng lớn với Ấn Độ về kinh tế, biên giới lãnh thổ.

Mặt khác, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với các nước Nam Á thông qua hai “gọng kìm” trên đất liền (phía Tây là Pakítxtan, Ápganítxtan, Giammu và Cátsơmia (Jammu và Kashmir) và phía Đông là Bănglađét, Xri Lanca…) và “chuỗi ngọc trai” trên Ấn Độ Dương. Theo đó, Trung Quốc thiết lập mối “quan hệ đặc biệt” với Pakítxtan trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quốc phòng. Trung Quốc luôn khẳng định quan hệ với Pakítxtan là quan hệ đồng minh, bạn bè truyền thống “đã qua thử thách thời gian”, ủng hộ Pakítxtan trong các vấn đề tranh chấp với Ấn Độ, nhất là vấn đề Cátsơmia, duy trì mối quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ (thường xuyên tập trận chung, là nước cung cấp vũ khí hàng đầu từ máy bay chiến đấu, tàu chiến, tên lửa hiện đại cho Pakítxtan, đặc biệt giúp đỡ và cung cấp công nghệ hạt nhân cho Pakítxtan) và hỗ trợ phát triển kinh tế cho Pakítxtan (kim ngạch thương mại năm 2011 đạt 15 tỷ USD).

Ngoài ra, Trung Quốc duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Xri Lanca, Ápganítxtan, Bănglađét… Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn tại Ápganítxtan với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trị giá hàng chục tỷ USD và cũng là nước viện trợ và cung cấp vũ khí lớn nhất cho Xri Lanca kể từ năm 2006 đến nay. Trung Quốc còn xây dựng các đường ống dẫn dầu khí và khí đốt ngoài khơi Mianma đến Vân Nam và hệ thống đường bộ, sân bay, cảng biển, vị trí quân sự v.v.. nối liền từ Vịnh Bengan tới tỉnh Vân Nam, tạo ra một mạng lưới liên kết các nước vùng Vịnh Bengan và nối liền tiểu vùng vịnh Bengan với Trung Quốc cắt khu vực tiểu vùng vịnh Bengan với Ấn Độ. Bên cạnh đó, Trung Quốc tăng cường hình thành “chuỗi ngọc trai” trên Ấn Độ Dương với việc đầu tư xây dựng các cảng biển mang lưỡng tính (dân sự và quân sự) từ Cảng Hambantota (Xri Lanca), đến cảng Chittagong Bănglađét và cảng Gwanda (Pakítxtan) và tích cực tăng cường thăm dò dầu khí tại Ấn Độ Dương.

Mỹ: Thời gian đầu sau Chiến tranh lạnh, Nam Á không còn giữ vị trí ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Tuy nhiên, việc Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố và nhất là chuyển dần trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm thực hiện “tái cân bằng”, Mỹ đã điều chỉnh chính sách đối với khu vực Nam Á theo hướng ngày càng coi trọng và ưu tiên hơn, thể hiện rõ nét qua mấy điểm sau:

Một là,can dự vào khu vực thông qua các hoạt động chống khủng bố. Sau sự kiện ngày 11-9-2001, với lý do tiêu diệt Ôsama Bin Lađen, lực lượng An Kêđa và Chính phủ Taliban, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh can thiệp vào Ápganítxtan. Mục đích của Mỹ là đặt chân vào khu vực Nam Á, khống chế Trung Á - nơi có nguồn dầu lửa lớn thứ hai thế giới sau Trung Đông, kiềm chế Trung Quốc, thu hẹp không gian chiến lược của Nga, phá vỡ liên minh Nga, Trung, Ấn trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Đồng thời, Mỹ tăng cường quan hệ với Pakítxtan nhằm lôi kéo Pakítxtan đứng trong mặt trận chống khủng bố; kiềm chế sự trỗi dậy của lực lượng Hồi giáo cực đoan tại khu vực. Ngoài ra, thông qua Pakítxtan, Mỹ muốn xây dựng một vành đai “thân Mỹ” gồm các nước Hồi giáo tại khu vực Vùng Vịnh, Tây Á, Trung Cận Đông, giàu tiềm năng năng lượng, dầu mỏ…phục vụ các mục đích chiến lược lâu dài của Mỹ tại khu vực Nam Á - Tây Á.

Hai là,Mỹ cải thiện và tích cực tăng cường quan hệ với Ấn Độ, cả về song phương và đa phương. Điều này xuất phát từ: (1) Mỹ muốn dần đưa Ấn Độ vào quỹ đạo chiến lược của Mỹ tại khu vực Nam Á, Đông Nam Á và Viễn Đông nhằm tranh thủ vị thế nước lớn của Ấn Độ phục vụ cho cuộc chiến chống khủng bố tại Ápganítxtan, cân bằng lực lượng, kiềm chế Trung Quốc và Nga, góp phần thực hiện chiến lược “tái cân bằng” tại châu Á - Thái Bình Dương; (2) phục vụ lợi ích an ninh trên biển và an ninh tại khu vực Viễn Đông, Đông Nam Á của Mỹ do Ấn Độ là quốc gia lớn án ngữ Ấn Độ Dương và nằm giữa hai khu vực trọng điểm chiến lược của Mỹ; (3) lợi dụng “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ nhằm bảo đảm an ninh và tự do hàng hải thương mại trên Biển Đông, mở rộng không gian chiến lược Viễn Đông và Đông Nam Á của Mỹ; (4) Mỹ tìm kiếm lợi ích kinh tế trong hợp tác vớiẤn Độ vốn có nguồn tài nguyên phong phú, thị trường lớn, một nước lớn đang phát triển, có thực lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, tham gia vào các nhóm kinh tế lớn, mới nổi trên thế giới như BRICS, G-20.

Nga: Sau Chiến tranh lạnh, Nga dành ưu tiên thấp cho khu vực Nam Á (xếp Nam Á đứng thứ 7/10 ưu tiên của Nga). Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ XXI, trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và khu vực, nhất là thế và lực của Nga đã được tăng cường, Nga điều chỉnh chính sách coi trọng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, dành sự quan tâm hơn đối với khu vực Nam Á, tập trung vào 3 trọng tâm chính: (1) Tăng cường quan hệ với Ấn Độ; (2)can dự công cuộc tái thiết tại Ápganítxtan; (3) lôi kéo lực lượng và xây dựng vành đai an ninh tại các nước Trung Á, giảm thiểu hệ lụy của cuộc chiến chống khủng bố tại Ápganítxtan, Pakítxtan.

Đối với Ấn Độ, Nga chia sẻ nhiều điểm đồng và lợi ích chung, như có lịch sử quan hệ truyền thống tốt đẹp, chung mục tiêu đấu tranh vì một trật tự thế giới đa cực, đều có chung mối đe dọa từ chủ nghĩa ly khai, khủng bố, tôn giáo cực đoan, hơn nữa Ấn Độ còn là thị trường tiềm năng cho ngành công nghiệp quốc phòng của Nga do 60-70% trang thiết bị quốc phòng của Ấn Độ được nhập từ Liên Xô trước đây. Ngoài ra, Nga rất quan tâm đến những tác động từ tình hình Ápganítxtan do có chung biên giới, sự hiện diện của Mỹ và liên quân tại căn cứ Manas (Kyrgyzstan), cũng như các vấn đề khác có ảnh hưởng tới các nước Trung Á (SNG cũ), cửa ngõ sát sườn phía Nam của Nga. Trong cuộc chiến chống Taliban tại Ápganítxtan năm 2001, Nga đã trợ giúp quân sự cho lực lượng Liên minh miền Bắc. Tại Hội nghị quốc tế về Ápganítxtan lần thứ 9 tại Kabul (7-2010), Nga tuyên bố xóa 12 tỷ USD tiền nợ, đồng thời tiếp tục cung cấp trang thiết bị quân sự, đào tạo cán bộ và trợ giúp nhân đạo cho nước này. Nga chủ trương duy trì quan hệ thân thiện với Pakítxtan còn do vị thế của Pakítxtan trong khu vực và thế giới đạo Hồi…

2. Tác động của các nước lớn đối với tình hình chính trị - an ninh khu vực

Sự tác động giữa các nước lớn và giữa các nước lớn với các nước khu vực, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị-an ninh khu vực Nam Á. Dưới góc độ tích cực, trước hết nó giúp tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước lớn với các nước khu vực.

Thông qua hợp tác chống khủng bố, Mỹ và Pakítxtan đã thiết lập được quan hệ đồng minh. Mỹ hủy bỏ cấm vận, nối lại viện trợ và thiết lập quan hệ đồng minh với Pakítxtan. Riêng năm 2001, Mỹ viện trợ 600 triệu USD cho Pakítxtan và đến năm 2009, tăng lên 7,5 tỷ USD. Ngoài viện trợ dân sự, Mỹ cũng chi 700 triệu USD cho các hoạt động chống nổi dậy trong năm 2010 và tăng lên 1,2 tỷ USD trong năm 2011. Tháng 10-2010, Mỹ công bố khoản viện trợ quân sự mới cho Pakítxtan trị giá 10 tỷ USD trong 5 năm (2012-2016). Ngoài ra, Mỹ còn có nhiều khoản viện trợ dân sự và quân sự khác.

Quan hệ Mỹ - Ấn bước sang thời kỳ mới, mở đầu bằng chuyến thăm Ấn Độ tháng 3-2000 của Tổng thống Mỹ B.Clinton. Năm 2004, Ấn Độ và Mỹ ký hiệp định hợp tác “Những bước tiếp theo trong mối quan hệ đối tác chiến lược” (NSSP) liên quan đến 3 lĩnh vực: hoạt động hạt nhân dân sự, chương trình không gian, kể cả dân sự, và thương mại công nghệ cao. Từ năm 2005, dưới thời của Tổng thống Mỹ George W. Bush, hai bên tiến hành các cuộc thương lượng cụ thể để tiến tới thỏa thuận về hạt nhân dân sự. Tháng 7-2008, hai bên ký Hiệp định hạt nhân dân sự, khẳng định việc Mỹ chính thức thừa nhận vị thế quốc gia vũ khí hạt nhân của Ấn Độ, đồng thời chính thức nâng mức quan hệ hai nước thành mối quan hệ đối tác chiến lược thực chất. Gần đây nhất, Thủ tướng Ấn Độ N.Modi thăm Mỹ (2014) và Tổng thống Mỹ B.Obama thăm Ấn Độ (2015). Hai bên cam kết cùng nỗ lực xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược mới; nhất trí tăng kim ngạch thương mại hai chiều gấp 5 lần so với mức 100 tỷ USD hiện nay; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh hàng hải, khoa học vũ trụ, ứng phó với các thách thức chung toàn cầu. Mỹ khẳng định quan hệ song phương Mỹ - Ấn giữ vai trò then chốt trong chính sách xoay trục của Mỹ.

Không chỉ thúc đẩy hợp tác song phương, Mỹ cũng xúc tiến hợp tác với Ấn Độ trên các vấn đề quốc tế và diễn đàn đa phương, đáng chú ý Mỹ chính thức chấp thuận Ấn Độ trở thành Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, ủng hộ Ấn Độ là thành viên chính thức của 4 cơ quan kiểm soát xuất khẩu hạt nhân quốc tế(3); cùng với Ấn Độ và các nước khác trong khu vực Viễn Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu Dilân và Xinhgapo lập thành một vành đai an ninh vòng ngoài để bảo vệ an ninh tại Ấn Độ Dương, trong đó Ấn - Mỹ - Nhật hình thành cơ chế đối thoại an ninh ba bên vào năm 2011. Bên cạnh đó, Mỹ cũng nỗ lực nâng cao vai trò của Ấn Độ trong việc chia sẻ trách nhiệm về các vấn đề kinh tế, chính trị tại Nam Á, Đông Nam Á.

Quan hệ Trung - Ấn phát triển tích cực hơn. Năm 2005, hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Ngay sau khi nhậm chức (đầu 2013), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã công bố sáng kiến 5 điểm nhằm cải thiện quan hệ với Ấn Độ và tháng 9-2014 sang thăm Ấn Độ; trong khi Thủ tướng Modi cũng sang thăm Trung Quốc ngay trong năm đầu cầm quyền(5-2015). Hai nước cùng chia sẻ điểm đồng về chống biến đổi khí hậu, cải cách toàn diện Liên Hợp quốc, chống khủng bố, ủng hộ việc tiến trình hòa giải và tái thiết Ápganixtan, mong muốn cán cân kinh tế thế giới chuyển dịch từ Tây sang Đông và đều là thành viên của nhóm BRICS và nhóm kinh tế G-20. Hợp tác kinh tế giữa 2 nước không ngừng gia tăng với thương mại hai chiều đạt 70,59 tỷ USD vào năm 2014.

Hợp tác truyền thống Trung Quốc - Pakítxtan tiếp tục phát triển và trở nên khăng khít hơn, trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn tranh thủ Pakítxtan trong việc triển khai sáng kiến “Một vành đai, một con đường”, mở đường sang Ấn Độ Dương, thiết lập tuyến vận chuyển năng lượng mới và ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố ở phía Tây Trung Quốc, nhất là vùng Tân Cương; trong khi Pakítxtan cũng muốn tranh thủ nguồn vốn to lớn và công nghệ của Trung Quốc, tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, chống khủng bố, củng cố tiềm lực quốc phòng trước Ấn Độ và thực hiện “Giấc mơ con hổ châu Á” của mình. Đáng chú ý, nhân chuyến thăm Pakítxtan của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (4-2015), hai bên đã thiết lập “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện trong mọi điều kiện” - được xem như mối quan hệ đồng minh duy nhất của Trung Quốc trên thế giới. Thương mại hai chiều giữa hai nước lên tới 15 tỷ USD năm 2014 và dự kiến sẽ lên 20 tỷ USD vào năm 2017.

Quan hệ Ấn - Nga có bước chuyển biến mới với việc Nga tuyên bố coi Ấn Độ là một thành viên có ảnh hưởng của cộng đồng quốc tế, là ứng viên mạnh và phù hợp với vị trí Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc mở rộng. Tháng 11-2001, Thủ tướng Ấn Độ Vajpayee thăm Nga, ký Tuyên bố về ổn định chiến lược. Hợp tác quân sự - kỹ thuật đóng vai trò nòng cốt trong quan hệ Ấn - Nga. Đến nay, Nga vẫn là nhà cung cấp vũ khí chính cho Ấn Độ (gần 80%, trong đó 70% của không quân và 80% của hải quân và hai nước liên tục gia hạn hiệp định hợp tác quân sự - kỹ thuật từ năm 1994). Ngoài ra, hai bên cũng đang triển khai các dự án công nghệ vũ trụ, khai thác dầu khí… Trên các diễn đàn quốc tế, hai bên cam kết cùng thúc đẩy vai trò điều phối trung tâm của Liên Hợp quốc, sự cần thiết cải tổ Hội đồng Bảo An, thúc đẩy xây dựng một thế giới đa cực, chia sẻ nhiều điểm đồng trong việc xử lý các vấn đề quốc tế, môi trường, không gian, tăng cường hợp tác trong tổ chức BRICS, G-20, cấp cao Đông Á, đặc biệt, hai bên là những thành viên tích cực trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), nhất trí giải quyết các điểm nóng tại Trung Đông và Bắc Phi bằng các biện pháp hòa bình và không có sự can thiệp từ bên ngoài.

Việc các nước lớn đều tìm cách tăng cường ảnh hưởng ở khu vực tạo điều kiện cho các nước Nam Á tận dụng cơ hội phục vụ lợi ích quốc gia riêng cũng như xây dựng mối quan hệ cân bằng, không bị ràng buộc quá chặt vào nước lớn nào.

Bên cạnh những tác động tích cực, sự gia tăng cạnh tranh giữa các nước lớn khiến môi trường khu vực trở nên căng thẳng và thiếu ổn định hơn. Sự cọ xát lợi ích giữa các nước lớn sẽ quyết liệt, gay gắt hơn đặt các nước khu vực trước không ít thách thức trong việc tranh thủ mặt hợp tác, hạn chế tác động tiêu cực, không bị lôi kéo hoặc làm con bài trao đổi giữa các nước lớn.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2015

(1) Khu vực Nam Á gồm 8 nước: Ápganixtan, Bănglađét, Butan, Ấn Độ, Manđivơ, Nêpan, Pakítxtan, Xrilanca.

(2) A. Sengupta: “Fifty years of development policy in India”, Independent India, ICCR & OxfordUniversity Press, 1998, tr. 123.

(3) Nhóm cung cấp hạt nhân, Cơ quan kiểm soát công nghệ tên lửa, Nhóm Úc và Thỏa thuận Wassenaar.